Liên kết website

Thống kê truy cập

Thông tin tuyên truyền

Lịch sử Đảng bộ xã Tân Quang

31/03/2023 16:31 63 lượt xem

CHƯƠNG III

 Dưới sự lãnh đạo của chi bộ, nhân dân các dân tộc xã Tân Quang đẩy mạnh tăng gia sản xuất góp phần chi viện sức người, sức của cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, thống nhất đất nước (1955 - 1975)

CHƯƠNG III

 Dưới sự lãnh đạo của chi bộ, nhân dân các dân tộc xã Tân Quang đẩy mạnh tăng gia sản xuất góp phần chi viện sức người, sức của cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, thống nhất đất nước (1955 - 1975)

I. Chi bộ Đảng xã Tân Quang lãnh đạo nhân dân trong xã thực hiện công tác củng cố chính quyền, khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa - xã hội, ổn định đời sống nhân dân (1955 - 1957)

Sau hiệp định Giơ-ne-vơ, miền Bắc nước ta được giải phóng, hòa bình được lặp lại. Cách mạng Việt Nam bước vào giai đoạn mới với 02 nhiệm vụ chiến lược liên hệ mật thiết và thúc đẩy lẫn nhau: miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa; miền Nam tiếp tục cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập dân chủ trong cả nước.

Cùng với nhân dân miền Bắc, nhân dân các dân tộc trong tỉnh, Đảng bộ, chính quyền huyện Bắc Quang, chi bộ, chính quyền và nhân dân xã Tân Quang bước vào thực hiện xây dựng chủ nghĩa xã hội, tích cực tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và góp phần cùng nhân dân cả nước thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng mới với những thuận lợi và khó khăn:

Thuận lợi: Dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam đã đề ra những chủ trương, đường lối, chính sách, biện pháp cụ thể phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước để lãnh đạo, chỉ đạo toàn Đảng, toàn dân thực hiện. Từ những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đã được Tỉnh ủy Hà Giang, Huyện ủy Bắc Quang và trực tiếp là Chi bộ xã cụ thể hoá sát với tình hình của địa phương, chỉ đạo các thôn tổ chức thực hiện có hiệu quả. Đồng thời, trải qua những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp cùng với nhân dân cả nước, tinh thần đấu tranh cách mạng, ý thức tự lập vươn lên trong khó khăn của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xã không ngừng được nâng cao. Đây là một trong những động lực quan trọng cho công cuộc cải tạo và xây dựng kinh tế - xã hội của địa phương.

Khó khăn: Là một xã miền núi, địa hình phức tạp, ngăn cách bởi nhiều con sông, suối; dân cư còn ít, giao thông còn khó khăn, trình độ dân trí thấp lại không đồng đều; kinh tế, văn hoá - xã hội chưa phát triển; đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, kinh nghiệm trong công tác chỉ đạo của cán bộ còn hạn chế. Mặt khác tàn dư của chế độ xã hội cũ để lại nặng nề. Nhiều nhóm phản động vẫn lén lút hoạt động, chống phá cách mạng, chúng dùng nhiều thủ đoạn hoạt động nhằm gây mất đoàn kết và phá vỡ niềm tin của đồng bào ta với Đảng và chính quyền. Do đó, làm nảy sinh không ít những khó khăn về công tác tư tưởng, công tác quản lý trên địa bàn.

Phát huy triệt để thuận lợi, quyết tâm khắc phục khó khăn, nhân dân các dân tộc trong xã Tân Quang đoàn kết thống nhất, nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, khôi phục và xây dựng nền kinh tế, từng bước làm thay đổi bộ mặt xã hội trên quê hương.

Quán triệt Nghị quyết 07 (họp từ ngày 03 - 12/3) và Nghị quyết 08 (họp từ ngày 13 - 20/8) năm 1955 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về "Tình hình hiện tại và nhiệm vụ công tác trước mắt", đề ra một số nhiệm vụ trước mắt của cách mạng hai miền Nam - Bắc. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Huyện ủy Bắc Quang, Chi bộ xã Tân Quang đã thống nhất đề ra những nhiệm vụ cụ thể: Trước hết phải có sự đoàn kết, thống nhất cao trong tập thể cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân các dân tộc trong xã, để thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước đã ban hành, với phương châm tự lực cánh sinh, từng bước xây dựng quê hương. Trước mắt thực hiện tốt công tác tuyên truyền, chống di cư tự do; chống đốt, phá rừng; hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, giải quyết vấn đề "Người cày có ruộng" xóa bỏ chế độ bóc lột phong kiến, giảm nghèo đói, thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc; phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội, trong đó chú trọng phát triển cây lương thực, cây ngắn ngày và hoa màu các loại; bảo đàm an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội.

Với các giải pháp cụ thể và mục tiêu coi trọng điều chỉnh lại ruộng đất, thực hiện chính sách đối với ruộng công, ruộng hoang, ruộng vắng chủ; tiếp tục tuyên truyền nhân dân tích cực khai hoang, phục hoá để các hộ dân đều có ruộng sản xuất, nâng cao đời sống; đưa nông dân làm chủ ruộng đất, làm chủ bản thân, làm chủ xã hội. Chi bộ đã chỉ đạo chính quyền, các đoàn thể phụ trách các thôn xóm, tuyên truyền nhân dân sửa chữa được 08 con mương, với trên 200 ngày công lao động, để cung cấp nước tưới cho 12.400 bó mạ. Trong thời gian này, thời tiết khô hạn, mưa ít; lượng nước các khe suối không đủ cung cấp tưới tiêu cho đồng ruộng, xã đã huy động toàn dân giúp đỡ lẫn nhau chống hạn, cứu lúa. Việc khai phá diện tích đất hoang hóa, cải tạo thành đất ruộng, đất sản xuất đã được nhân dân trong xã thực hiện tốt. Điển hình có các thôn Nghĩa Tân, Vinh Quang, Xuân Hòa.

Sự nghiệp văn hoá, y tế được quan tâm chỉ đạo và có bước phát triển mới đi vào chiều sâu: Công tác bình dân học vụ, toàn xã mở được 12 lớp, thanh toán xong nạn mù chữ cho trên 335 người trong xã; mặt khác tuyên truyền cho những người biết chữ trong gia đình, dòng họ dạy những người chưa biết chữ để nhiều người biết chữ hơn. Các đội văn nghệ ở các thôn xóm cũng được thành lập nhằm phát huy truyền thống văn hoá của các dân tộc; công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được coi trọng, vệ sinh phòng dịch bệnh được quan tâm, đã dập tắt được nhiều dịch bệnh lây lan. Công tác giáo dục tư tưởng được đẩy mạnh, thường xuyên phát động những đợt học tập chính trị cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nắm vững các đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, địa phương.

Kết quả thực hiện các nhiệm vụ trên đã đáp ứng được nhu cầu thiết thực của nhân dân, người dân càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền các cấp. Do vậy nông dân rất tích cực, phấn khởi tăng gia sản xuất, từng bước thoát khỏi sự ràng buộc về kinh tế với tầng lớp trên. Nhân dân nhiệt tình đóng góp thuế, nghĩa vụ, tham gia xây dựng chính quyền, xây dựng lực lượng vũ trang, phát triển các đoàn thể xã hội, thành lập các tổ đổi công. Tích cực tham gia học tập, sinh hoạt văn hoá - xã hội, học tập các chính sách của Đảng và Nhà nước. Tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc được tăng cường, các đoàn thể phát triển mạnh, trong đó tổ chức Nông hội có 422 hội viên, hội Phụ nữ có 318 hội viên, Đoàn thanh niên có 210 đoàn viên, thiếu nhi có 198 đội viên.

Trong công tác xây dựng Đảng, chi bộ luôn quan tâm đến phát triển Đảng viên. Chi bộ đã theo dõi, bồi dưỡng, giúp đỡ và kết nạp 03 quần chúng ưu tú vào Đảng, đạt 50% kế hoạch, nâng tổng số đảng viên trong chi bộ lên 12 đồng chí.

Năm 1955, Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất của huyện được tổ chức, Đại hội có 69 đại biểu thay mặt cho các dân tộc, tôn giáo trong toàn huyện về dự; Đại hội đã bầu ra 13 ông, bà có uy tín vào Ủy ban Mặt trận huyện. Đại hội đã biểu quyết tán thành cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ban hành. Sự thành công của Đại hội đã thể hiện sự đoàn kết, nhất trí cao của các tầng lớp nhân dân, các tôn giáo trong toàn huyện với quyết tâm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc. Ngay tại Đại hội, Mặt trận Tổ quốc huyện đã chỉ đạo thành lập Mặt trận Tổ quốc các xã. Với vai trò là một bộ phận quan trọng của hệ thống chuyên chính vô sản. Sau khi được thành lập, Mặt trận Tổ quốc xã Tân Quang đã tổ chức cho nhân dân học tập Cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với 474 người tham gia. Qua học tập nhân dân càng hiểu biết và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vai trò của Mặt trận Tổ quốc được nâng cao, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, quyết tâm xây dựng chính quyền, thôn xóm ngày một phát triển.

Trong hai năm 1955 - 1956, dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy Bắc Quang, Chi bộ Tân Quang đã chỉ đạo học tập chính sách dân tộc của Đảng, tuyên truyền vận động thành lập khu tự trị Lao - Hà - Yên. Việc thành lập khu tự trị nhằm tự quản, bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ dân tộc, tạo ra khả năng phát triển mọi mặt dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng và Chính phủ. Từ chính sách dân tộc, đến việc vận động thành lập khu tự trị của Đảng, đã có trên 90% quần chúng học tập và hưởng ứng rộng rãi, phản bác lại chính sách chia rẽ dân tộc của bọn phản động, tăng cường sự đoàn kết, từ bỏ tính tự ty dân tộc, hẹp hòi, ích kỷ, không ngừng nâng cao trình độ văn hóa, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện quyền bình đẳng trên tất cả các mặt: Chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh, quốc phòng..., từng bước đào tạo, bồi dưỡng cán bộ miền núi tiến kịp với miền xuôi.

Tháng 4 năm 1956, cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân xã lần thứ 2 được tiến hành, nhân dân trong xã nô nức tham gia bỏ phiếu, bầu ra 09 đại biểu đại diện cho nhân dân toàn xã. Ủy ban hành chính lâm thời xã được đổi tên thành Ủy ban hành chính do ông Vàng Séo Chằng được bầu giữ chức Chủ tịch, ông Nguyễn Văn Lợi được bầu giữ chức Phó Chủ tịch. Ủy ban hành chính xã đã đẩy mạnh việc củng cố khối đại đoàn kết trong đồng bào các dân tộc, đẩy mạnh các hoạt động sản xuất nhằm ổn định tình hình chính trị - xã hội, khôi phục và phát triển kinh tế ở địa phương.

Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và của tỉnh về việc giảm tô, cải cách ruộng đất. Năm 1955, xã Tân Quang đã tiến hành việc giảm tô cho nhân dân, đến năm 1956 tiến hành cải cách ruộng đất. Nhân dân trong xã, hết sức phấn khởi, tin tưởng vào chủ trương của Đảng.

Bước sang năm 1955, đời sống của nhân dân xã Tân Quang cũng  như  huyện Bắc Quang gặp nhiều khó khăn. Việc sản xuất, cây lương thực thực phẩm bị sâu bệnh tàn phá nặng nề, ở nhiều nơi trong xã hầu như bị mất trắng. Đứng trước những khó khăn trên, thực hiện chủ trương của Huyện ủy Bắc Quang về việc phòng trừ sâu bệnh, chi bộ đã chỉ đạo chính quyền, các đoàn thể xã hội, tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện các biện pháp để hạn chế tối đa thiệt hại mùa vụ. Thực hiện chủ trương trên, các tầng lớp nhân dân trong xã từ thanh niên, phụ nữ, phụ lão, cho đến các cháu học sinh, thiếu niên trong xã đã tham gia tích cực vào việc diệt trừ sâu bệnh, bảo vệ hoa màu như phun thuốc, bắt thủ công để tiêu hủy, bẫy bả các loại... để hạn chế tối đa thiệt hại trong sản xuất cho nhân dân. Từ đó đã hạn chế được dịch sâu bệnh xâm hại. Bên cạnh đó, chi bộ đã chỉ đạo chính quyền, các đoàn thể xã hội vận động nhân dân tăng cường bổ sung ăn độn khoai, sắn; tích cực trồng các cây ngắn ngày để bổ sung phần lương thực thiếu hụt. Đồng thời tuyên truyền vận động nhân dân nêu cao tinh thần "Một miếng khi đói, bằng một gói khi no", quyên góp để ủng hộ cho đồng bào bị đói trong huyện. Qua đó, nhân dân trong xã đã tham gia đóng góp gạo, tiền, rau xanh. Tuy số lượng không nhiều nhưng đã thể hiện tinh thần đùm bọc, đoàn kết đối với nhân dân trong huyện khi khó khăn.

Việc thực hiện chính sách thuế nông nghiệp bước đầu gặp nhiều khó khăn, do nhận thức của đồng bào còn hạn chế. Vụ đông năm 1956, huyện đã tổ chức tập huấn cho cán bộ các xã về kế hoạch thu thuế nông nghiệp, nghiệp vụ công tác thuế và cách tuyên truyền, vận động nhân dân. Xã đã cử một số cán bộ đi tham gia tập huấn. Sau khi các cán bộ được tập huấn về, xã đã tổ chức học tập, phổ biến rộng rãi cho các cán bộ, đảng viên và nhân dân về chính sách thuế nông nghiệp và nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước. Nhờ được học tập, tuyên truyền, vận động cụ thể, đa số nhân dân trong xã đã thấy được nghĩa vụ và trách nhiệm trong việc nộp thuế nông nghiệp. Bên cạnh đó, các cán bộ, đảng viên còn tuyên truyền cho nhân dân thấy được sự ưu tiên của Đảng và Chính phủ trong chính sách thuế đối với đồng bào các dân tộc ở miền núi, qua đó thấy được tính ưu việt của chế độ mới - Xã hội chủ nghĩa, thấy được quyền làm chủ của mình.

Công tác xoá mù chữ, nâng cao đời sống văn hóa cho nhân dân trong xã cũng được chi bộ, chính quyền xã quan tâm. Phong trào học xóa mù chữ của xã đã được phát triển mạnh thu hút được nhiều người tham gia. Năm 1956, trường cấp I của xã được thành lập với 04 giáo viên và 45 học sinh, có các lớp học 1, 2 và 3.

 II. Chi bộ Đảng xã Tân Quang lãnh đạo nhân dân phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, góp phần thực hiện nhiệm cụ cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958 - 1960)

Năm 1958, cùng với nhân dân miền Bắc, nhân dân xã Tân Quang bước vào một thời kỳ mới, thời kỳ cải tạo Chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội theo kế hoạch Nhà nước.

Thực hiện sự chỉ đạo của cấp trên về việc tiến hành Đại hội Đảng các cấp, tháng 9 năm 1958, Chi bộ xã Tân Quang đã tiến hành Đại hội lần thứ III. Đại hội có 18 đảng viên tham dự. Đại hội đã thông qua báo cáo công tác chỉ đạo của các năm trước. Đại hội đã chỉ rõ: Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn như: Trình độ, năng lực cán bộ còn hạn chế, trình độ dân trí không đồng đều, đầu tư cho sản xuất còn nhiều khó khăn, trình độ kỹ thuật lạc hậu, chưa phát triển, năng suất cây trồng, vật nuôi còn thấp, thời tiết không thuận lợi, cơ sở vật chất thiếu thốn. Song được sự quan tâm, chỉ đạo của cấp trên, Chi bộ xã Tân Quang đã tập trung chỉ đạo chính quyền, các đoàn thể và nhân dân trong toàn xã tích cực thi đua sản xuất, phát triển chăn nuôi, thành lập các tổ đổi công, thực hiện tốt công tác thủy lợi phục vụ sản xuất, nên năng suất cây trồng, vật nuôi phát triển có chiều hướng tăng nhanh, đời sống vật chất của nhân dân khác hơn các năm trước, tỷ lệ hộ đói giáp hạt có giảm nhưng chưa đáng kể, an ninh chính trị được đảm bảo. Công tác củng cố chính quyền và các đoàn thể được quan tâm; phát triển đảng viên được 15 đồng chí, chuyển đi nơi khác 06 đồng chí, tổng số đảng viên trong chi bộ đến cuối năm 1958 là 18 người.

Tuy đạt được những kết quả trên, song chi bộ cũng thẳng thắn nhìn nhận những mặt còn tồn tại là: Về công tác chỉ đạo có lúc chưa tập chung, chưa sâu sát, công tác tuyên truyền chưa được triệt để; chăn nuôi chưa được đẩy mạnh, năng suất thấp, công tác khai hoang, mở rộng diện tích đất chưa thực hiện triệt để, còn nhiều diện tích đất hoang hóa. Năng lực quản lý, lãnh đạo của cán bộ còn hạn chế. Công tác giáo dục đảng viên chưa thực hiện tốt, trong nhiệm kỳ còn có đảng viên vi phạm, bị kỷ luật.

Đại hội đã đề ra những phương hướng, nhiệm vụ những năm tiếp theo: Tăng cường công tác chỉ đạo và tuyên truyền trong nhân dân để thành lập các tổ đổi công tại các thôn xóm, tiến tới thành lập các hợp tác xã. Vận động nhân dân tiếp tục thực hiện khai hoang, phục hóa, mở rộng diện tích đất, tận dụng hết diện tích để gieo cấy; chú trọng phát triển các loại rau, hoa màu; làm tốt công tác thủy lợi, đảm bảo đủ nước tưới cho các cánh đồng. Phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm, đảm bảo các chỉ tiêu giao nộp nghĩa vụ cho nhà nước và nâng cao đời sống của nhân dân. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, lãnh đạo, làm tốt công tác quản lý, giáo dục đảng viên, phát triển đảng viên mới.

Đại hội đã bầu ra 03 đồng chí trong Ban chi ủy. Đồng chí Lộc Sằn Hìn được Đại hội tín nhiệm bầu giữ chức Bí thư chi bộ. Đồng chí Đỗ Đức Hoạt, Phó Bí thư chi bộ. Đồng chí Nguyễn Mạnh Lân, ủy viên. Đại hội cũng đã bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ huyện Bắc Quang lần thứ III.

Năm 1958, Ủy ban hành chính xã được kiện toàn. Đồng chí Nguyễn Văn Quang được bầu giữ chức Chủ tịch. Đồng chí Lộc Sằn Hìn được bầu giữ chức Phó chủ tịch.

Tháng 12 năm 1958, Đảng bộ huyện Bắc Quang tiến hành Đại hội Đảng lần thứ III. Đại hội Đảng bộ huyện xác định bước đi của trọng tâm phát triển kinh tế là sản xuất nông, lâm nghiệp và chăn nuôi, lấy nông nghiệp là chủ đạo. Đồng thời Đảng bộ cũng đã chỉ ra biện pháp cơ bản tháo gỡ khó khăn đảm bảo sản xuất nông nghiệp, khắc phục thiên tai, hạn hán và tổng kết rút kinh nghiệm xây dựng hợp tác xã điểm ở Quang Minh để chỉ đạo các xã trong toàn huyện.

Với những phương hướng Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ III, Nghị quyết chi bộ đề ra. Chi bộ đã chỉ đạo chính quyền, các đoàn thể xã hội tổ chức tuyên truyền trong nhân dân tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, tăng gia sản xuất, khai hoang phục hoá, làm thủy lợi... Do đó, từ năm 1958 - 1960, diện tích và năng suất nông nghiệp của xã năm sau cao hơn năm trước, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Công tác văn hóa - giáo dục của xã được đẩy mạnh, thu hút nhiều người tham gia học xoá mù chữ, dần dần xoá bỏ được nhiều tập tục lạc hậu, xây dựng một cuộc sống mới tiến bộ.

Tháng 4 năm 1959, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 16 (khóa II) được triệu tập. Hội nghị đã họp bàn về vấn đề hợp tác hoá nông nghiệp và cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh theo CNXH ở miền Bắc. Đối với miền núi nhiệm vụ trước mắt là vận động hợp tác hóa nông nghiệp phát triển sản xuất, kết hợp hoàn thành cải cách dân chủ; đồng thời có thể tổ chức những hợp tác xã nông - lâm nghiệp, hợp tác xã chăn nuôi.

Giai đoạn này, phong trào tổ đổi công được đẩy mạnh ở các thôn trên địa bàn xã, đã thu hút được đông đảo nhân dân tham gia. Toàn xã thành lập được 08 tổ đổi công hoạt động hiệu quả. Do thực hiện tốt các quy trình vào sản xuất, từ khâu làm đất, gieo mạ, bón phân, thu hoạch nên riêng vụ đông xuân năm 1959, toàn xã đã gieo cấy 4.000 bó mạ thuộc giống lúa Nam Ninh, thu hoạch trên 22 tấn. Các loại cây ngô, khoai, sắn... cũng được nhân dân tận dụng diện tích đất hoang hóa, các soi bãi. Toàn xã đã trồng được trên 100.000 khóm sắn, 25.000 ngọn mía, 1.500 kg khoai sọ, hơn 1000 kg rau, đậu các loại.

Thực hiện Nghị quyết của Trung ương và chỉ đạo của Huyện ủy Bắc Quang về việc xây dựng các hợp tác xã nông nghiệp. Đầu năm 1959, Chi bộ xã Tân Quang đã tổ chức học tập, quán triệt các nội dung của cấp trên về thành lập hợp tác, đồng thời phát động phong trào xây dựng hợp tác xã nông nghiệp tới toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân. Chi bộ quyết định chọn thôn Xuân Hòa làm điểm để xây dựng hợp tác xã đầu tiên của xã để nhân rộng. Được sự giúp đỡ của huyện, sự cố gắng nỗ lực của chi bộ, chính quyền xã. Đầu năm 1960, hợp tác xã Xuân Hòa được thành lập với 17 hộ gia đình tham gia. Ngay sau khi thành lập, hợp tác xã đã phát động một số cuộc vận động nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất như "Ba cải tiến", "thửa ruộng Lâm Đồng, đồng thời hướng dẫn, chỉ đạo xã viên kỹ thuật gieo cấy và chăm sóc cây trồng. Do vậy, vụ đông xuân năm 1959 - 1960, hợp tác xã Xuân Hòa gieo cấy đạt 3.000 bó mạ, năng suất bình quân đạt 2,8 kg/bó mạ. Ngoài cấy lúa, hợp tác xã còn vận động nhân dân tăng gia thêm các loại cây hoa màu như ngô, khoai, sắn, rau, đậu các loại.

Bên cạnh đó, hợp tác xã còn chủ động vận động xã viên phát triển đàn gia súc, gia cầm vừa bảo đảm hoàn thành nghĩa vụ thuế cho nhà nước, vừa cải thiện đời sống, tăng thu nhập cho nhân dân. Cuối năm 1960, hợp tác xã có 27 con trâu (trong đó 19 con trâu cày bừa, 02 trâu sinh sản và 06 trâu nghé). Công tác thủy lợi cũng được hợp tác xã chú trọng thực hiện tốt.  Hợp tác xã đã xây dựng được 02 tuyến mương mới với chiều dài 150m, tu sửa được 06 phai đập, phục vụ nước tưới cho diện tích cấy.

Cuối năm 1960, hợp tác xã mua bán của xã được thành lập, góp phần cung cấp các mặt hàng thiết yếu như dầu, muối, vải, tư liệu sản xuất, sách, vở học sinh... phục vụ đời sống sinh hoạt của nhân dân.

Dưới sự quan tâm lãnh chỉ đạo của Chi bộ xã, trong giai đoạn 1955 - 1960, hoạt động của chính quyền và các tổ chức đoàn thể Đoàn Thanh niên lao động Việt Nam, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Phụ lão... được củng cố và từng bước phát triển. Đó là nguồn lực để tạo ra các phong trào thi đua trong lao động, sản xuất như: Đoàn thanh niên với phong trào làm thủy lợi, chống hạn, phòng chống sâu bệnh, làm phân xanh; Hội Phụ nữ, Hội Nông dân với phong trào thi đua cải tiến kỹ thuật, ủ mạ, bón phân, cày sâu, bừa kỹ... Số lượng hội viên, đoàn viên tham gia các tổ chức ngày càng tăng.

Trên lĩnh vực kinh tế, quan hệ sản xuất mới dần được hình thành, việc xây dựng hợp tác xã được nhân dân đồng tình hưởng ứng, tích cực thực hiện, đã đem lại những kết quả tốt. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân từng bước cải thiện, bước đầu xác lập được quan hệ sản xuất mới - quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Chi bộ, chính quyền và các tổ chức đoàn thể nhân dân ngày càng được củng cố và hoạt động tích cực. Tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội luôn ổn định. Đây chính là những cơ sở thuận lợi, tạo đà để chi bộ tiếp tục lãnh đạo nhân dân bước vào thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu mới trong giai đoạn tiếp theo.

Từ ngày 5 đến ngày 10 tháng 9 năm 1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam được tổ chức tại thủ đô Hà Nội, Đại hội đã đề ra nhiệm vụ là: Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất đất nước trên cơ sở độc lập dân tộc và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình ở Đông - Nam Á và thế giới; thông qua Điều lệ Đảng sửa đổi và thông qua lời kêu gọi của Đại hội...

Từ ngày 17 đến ngày 25 tháng 3 năm 1961, Đại hội lần thứ III của Đảng bộ tỉnh Hà Giang được tổ chức. Đảng bộ và nhân dân Hà Giang đã vinh dự được chủ tịch Hồ Chí Minh lên thăm và chỉ đạo Đại hội. Đại hội đã nghiêm túc quán triệt nội dung Đại hội lần thứ III của Đảng và thông qua Nghị quyết về phương hướng, nhiệm vụ trong 5 năm tới: Đoàn kết nhân dân các dân tộc đưa tỉnh Hà Giang tiến nhanh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, tạo mọi điều kiện đưa vùng cao tiến kịp vùng thấp, vùng biên giới tiến kịp vùng nội địa, vùng hẻo lánh tiến kịp vùng tập trung, toàn tỉnh tiến kịp vùng xuôi, thực hiện chính sách dân tộc của Đảng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh chống đế quốc Mỹ ở miền Nam tiến đến thống nhất nước nhà. Trước mắt nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa vẫn là trọng tâm, đồng thời đẩy mạnh sản xuất phát triển. Tập trung mọi cố gắng để phát triển nông nghiệp toàn diện, lấy phát triển lương thực làm trọng tâm.

Quán triệt các Nghị quyết của Trung ương Đảng, Đảng bộ tỉnh, Đảng bộ huyện, Chi bộ xã xác định nhiệm vụ trọng tâm cần tổ chức thực hiện: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, đặc biệt là chính sách về phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, nông thôn; mặt khác tổng kết đánh giá xây dựng điểm hợp tác tại thôn Xuân Hòa để nhân dân học tập và nhân diện rộng; tập trung chỉ đạo phát triển cây lương thực (lúa, ngô, khoai, sắn), tiến hành thủy lợi hoá, cải tiến nông cụ, kỹ thuật, đẩy mạnh khai hoang, tăng vụ, phát triển chăn nuôi; phát triển thương mại, xây dựng cơ sở hạ tầng; tăng cường phát triển văn hóa, giáo dục và y tế; bảo đảm hoàn thành 100% thuế cho Nhà nước; củng cố kiện toàn các đoàn thể xã hội, tăng cường phát triển đảng viên mới tiến tới thành lập Đảng bộ.

Phong trào thi đua đã được chi bộ triển khai, chỉ đạo chặt chẽ và phát động rộng khắp tới các hợp tác xã, các đoàn thể và nhân dân các dân tộc như: "Gió Đại Phong", "Sóng Duyên Hải", "Cờ Ba Nhất", "Tiếng trống Bắc Lý"; đối với các đoàn thể phát động phong trào thi đua "Xung phong tình nguyện" của Đoàn Thanh niên, "Năm tốt" của Hội Phụ nữ, với khẩu hiệu "Bí thư ra tay lãnh đạo và phát động chiến dịch tiến quân vào 4 mặt: Làm phân bón, thủy lợi, làm công cụ cải tiến và làm đất kỹ". Ngoài ra nhân dân tích cực tham gia phong trào thực hành tiết kiệm “Ba không”, “Ba hoãn”, “Ba giảm”... Kết quả đã thu được những thành tựu đáng tự hào, mọi người, mọi nhà đều tích cực hăng hái tăng gia sản xuất, phát triển kinh tế. Các đoàn thể xã hội tăng cường công tác tuyên truyền, vận động, biểu dương các gương tiêu biểu trong các phong trào thi đua. Các nhà trường thi đua "Dạy tốt, học tốt", thực hiện tốt 5 điều Bác Hồ dạy. Công tác an ninh chính trị, trật tự xã hội trên địa bàn được giữ vững. Nhân dân luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, chính sách của Nhà nước và những quy định của địa phương.

Từ  đầu năm 1963, theo chủ trương của Đảng về việc đưa đồng bào miền xuôi đi xây dựng vùng kinh tế mới. Nhân dân các tỉnh miền xuôi như: Thái Bình, Nam Định, Vĩnh Phúc....với  hơn 300 nhân khẩu đã lên Tân Quang lập nghiệp. Với tinh thần “Nhường cơm sẻ áo”, nhân dân xã Tân Quang đã phát huy truyền thống đoàn kết tương thân, tương ái, tích cực giúp đỡ các gia đình ổn định cuộc sống để an tâm sản xuất phát triển kinh tế. Ngoài ra, xã tổ chức bố trí ở xen kẽ với nhân dân bản địa và chia đất thổ cư, phân bổ vào các hợp tác xã; trong đó tập trung chủ yếu tại thôn Nghĩa Tân, Vinh Quang. Sau khi nhân dân miền xuôi ổn định cuộc sống đã hình thành một vùng kinh tế mới, tạo đà cho sự phát triển kinh tế của toàn xã. Để công tác quản lý hành chính được tốt, Hội đồng nhân dân xã đã đề nghị được thành lập mới thôn Tân Mỹ (tức thôn Mỹ Tân ngày nay). Cùng với việc tiếp nhận nhân dân miền xuôi lên xây dựng kinh tế mới, Chi bộ Đảng xã Tân Quang tiếp nhận thêm 10 đảng viên ở miền xuôi chuyển lên sinh hoạt cùng chi bộ, nâng tổng số đảng viên trong chi bộ lên 28 đồng chí.

Tháng 12 năm 1963, Chi bộ xã Tân Quang tổ chức Đại hội lần thứ IV, tham dự Đại hội có 28 đảng viên. Đại hội đã đánh giá những kết quả chỉ đạo Nghị quyết Đại hội chi bộ lần thứ III. Đại hội đã đề ra một số nhiệm vụ chủ yếu trong giai đoạn tiếp theo là: Tiếp tục chỉ đạo và tổ chức tốt các hợp tác xã nông nghiệp, nhằm sử dụng hết diện tích, không để đất hoang hóa; áp dụng kỹ thuật mới vào sản xuất, chăn nuôi; nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi. Xây dựng cửa hàng thương nghiệp kết hợp dịch vụ, thực hiện tốt công tác cung cấp các mặt hàng thiết yếu cho nhân dân. Kết hợp với công tác dịch vụ nhằm thu mua các sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp phục vụ cho nhu cầu của đất nước, của địa phương và nâng cao thu nhập cho người dân. Hoàn thành 100% các khoản thuế cho Nhà nước và các khoản đóng góp của địa phương. Làm tốt công tác tuyên truyền, vận động thanh niên lên đường nhập ngũ và phục vụ chiến đấu, đảm bảo đạt 100% chỉ tiêu tuyển quân; thực hiện tốt phong trào hậu phương, sẵn sàng đóng góp sức người, sức của ủng hộ tiền tuyến. Thực hiện tốt công tác văn hóa - xã hội đẩy mạnh công tác tuyên truyền ăn, uống hợp vệ sinh, phòng chống dịch bệnh; phát động các phong trào thi đua chào mừng các ngày lễ lớn của đất nước, của địa phương, xây dựng các đội văn nghệ, thể thao tại xã, thôn, xóm. Tiếp tục củng cố chính quyền và các tổ chức đoàn thể hoạt động có hiệu quả cao hơn, phát triển thêm đoàn viên, hội viên. Ổn định vùng kinh tế mới, tiếp tục tiếp đón, bố trí nơi ở, đất sản xuất cho đồng bào miền xuôi lên xây dựng vùng kinh tế mới theo chủ trương của Đảng và Chính phủ.

Đại hội đã bầu Ban chi ủy gồm 03 đồng chí. Đồng chí Lộc Sằn Hìn được Đại hội tín nhiệm bầu giữ chức Bí thư chi bộ. Đồng chí Đỗ Đức Hoạt được bầu giữ chức vụ Phó Bí thư chi bộ, đồng chí Lầu Phúc Lầm ủy viên.

Tháng 8 năm 1964, Đại hội Đảng bộ huyện Bắc Quang lần thứ V được triệu tập, với 150 đại biểu tham dự, đại diện cho trên 1.500 đảng viên trong toàn Đảng bộ. Đại hội đã ban hành Nghị quyết, trong đó tập trung phát triển nông nghiệp ở miền núi, phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) do huyện đề ra. Đại hội cũng đã tiếp tục khẳng định, tập trung để phát triển sản xuất toàn diện, lấy nông - lâm nghiệp làm trọng tâm, kiện toàn hợp tác xã, tăng cường đội ngũ cán bộ địa phương, tăng cường củng cố tổ chức cơ sở Đảng.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Chi bộ lần thứ IV. Chi bộ đã xây dựng chương trình hành động đưa ra các giải pháp cụ thể để động viên cán bộ, đảng viên và nhân dân tích cực thi đua hoàn thành các chỉ tiêu đề ra, mặt khác Chi bộ phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng đảng viên, gắn trách nhiệm của đảng viên.  

Công tác củng cố, phát triển các đoàn thể quần chúng được chi bộ đặc biệt quan tâm chỉ đạo thực hiện. Trên cơ sở đó, các đoàn thể quần chúng đã thực hiện tốt việc tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân ra sức thi đua sản xuất, chấp hành tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và các nhiệm vụ của chi bộ đã đề ra kết hợp với phong trào đấu tranh chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Các phong trào thi đua được đoàn viên, hội viên và nhân dân hăng hái thực hiện, tạo nên khí thế sôi nổi trong cộng đồng dân cư.

Đoàn Thanh niên hoạt động sôi nổi, đi vào chiều sâu. Toàn xã có 67 đoàn viên, sinh hoạt tại 03 chi đoàn (chi đoàn Xuân Hòa, Vinh Quang, Tân Tiến). Các chi đoàn đã thực hiện tốt việc vận động đoàn viên, thanh niên hăng hái tham gia sản xuất và thực hiện các phong trào như: Phong trào ủ phân xanh được 08 tấn, phong trào lao động làm kênh, mương thủy lợi phục vụ nước tưới cho đồng ruộng đạt 300 ngày công, phong trào “3 sẵn sàng” được 50 đoàn viên hăng hái đăng ký thực hiện. Hàng năm, thanh niên trong độ tuổi đều tham gia kế hoạch tuyển quân, nhiều đồng chí tự nguyện viết đơn xin lên đường nhập ngũ, sẵn sàng tham gia chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc. Do vậy, Tân Quang luôn đạt 100% chỉ tiêu nghĩa vụ quân sự hàng năm.

Hội Phụ nữ đã vận động chị em hội viên thực hiện tốt phong trào “3 đảm đang" Toàn xã có 257 hội viên tham gia sinh hoạt trong 04 chi hội, đây là lực lượng tích cực luôn đi đầu trong các phong trào, nhất là việc áp dụng các kỹ thuật mới vào sản xuất như: chăng dây cấy thẳng hàng, cấy đúng kỹ thuật 20 x 20 cm, thực hiện tốt việc không cấy chay. Ngoài ra, chị em còn thực hiện tốt việc tham gia dân công, làm đường dân sinh, vệ sinh đường làng ngõ xóm, các phong trào văn hóa, văn nghệ, tham gia huấn luyện dân quân hàng năm...

Các cụ phụ lão hưởng ứng và phát huy tinh thần “Tuổi cao trí càng cao”, tham gia phong trào “3 tích cực”, góp phần hoàn thành các chỉ tiêu tuyển quân, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, tăng độ che phủ của rừng, hạn chế xói mòn. 

Công tác giáo dục - văn hoá của xã cũng có những biến chuyển tích cực. Năm 1960, xã đã có trường cấp II với 08 giáo viên và trên 100 học sinh. Các cháu học sinh cấp I và cấp II thực hiện tốt cuộc vận động “5 điều yêu” (yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, yêu chăm học, yêu của công, yêu lao động) và “2 tính tốt” (thật thà và dũng cảm). Phát huy tinh thần tự học, rèn luyện, ngoài ra còn tham gia các hoạt động lao động cộng sản như: vệ sinh đường, nạo vét kênh mương, diệt chuột, diệt sâu bệnh.

Đối với công tác y tế, chú trọng tới công tác tuyên truyền phòng chống dịch, chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân, vận động nhân dân tham gia phong trào “ăn sạch, ở sạch, uống sạch”, tiêm phòng chống dịch đạt 100% kế hoạch. Qua đó, nhân dân đã nâng cao nhận thức về việc chăm sóc sức khỏe, chủ động phòng tránh dịch bệnh, khi bị ốm đau đều tới trạm y tế khám và điều trị.

Các hoạt động văn hóa -  thông tin cũng được duy trì và mở rộng. Đội văn nghệ quần chúng của xã kết hợp với Đoàn thanh niên xã thường xuyên tổ chức các hoạt động giao lưu văn nghệ, thể thao tại xã và tích cực tham gia các giải do huyện tổ chức vào dịp các ngày lễ, ngày tết cổ truyền của dân tộc, tạo không khí vui vẻ, phấn khởi, động viên nhân dân tích cực thi đua lao động sản xuất.

 Công tác phát triển đảng viên mới được quan tâm chỉ đạo và thực hiện tốt. Chi bộ đã giới thiệu và kết nạp được 06 quần chúng ưu tú vào Đảng, nâng tổng số đảng viên trong chi bộ lên 34 đồng chí.

 Cuối năm 1964, chiến lược “chiến tranh đặc biệt” bị thất bại, đế quốc Mỹ đã đưa quân vào miền Nam Việt Nam tiến hành "chiến tranh cục bộ". Chúng mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc, với âm mưu phá hủy tiềm lực phát triển kinh tế, quốc phòng, cản trở công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, ngăn chặn nguồn chi viện từ miền Bắc cho chiến trường miền Nam. Thực hiện chỉ đạo của cấp trên, Chi bộ xã Tân Quang đã chủ động triển khai phát động phong trào bảo vệ an ninh, tuyên truyền nhân dân nâng cao cảnh giác, phòng gian bảo mật. Nhân dân đã thực hiện việc đào các hầm trú ẩn, các giao thông hào tại các vị trí trọng điểm, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng các phương án sơ tán khi cần thiết. Hệ thống báo động của xã cũng được thành lập, công tác phòng không được rèn luyện thường xuyên, dần dần trở thành nếp sống bình thường của nhân dân. Ý thức tự giác và tinh thần sẵn sàng chiến đấu, phục vụ chiến đấu của nhân dân được nâng cao.

Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi người làm việc bằng hai để đền đáp sự hi sinh gian khổ của đồng bào miền Nam ruột thịt. Đồng thời, nhận thức chống Mỹ là nhiệm vụ thiêng liêng, trọng tâm trước mắt của cả dân tộc, trong đó có nhân dân các dân tộc xã Tân Quang. Chi bộ đã lãnh đạo nhân dân thi đua đẩy mạnh phong trào tăng gia sản xuất trong các hợp tác xã với khẩu hiệu “Vừa chiến đấu, vừa sản xuất”, “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Mỗi người hãy làm việc bằng hai”, “Làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm”... Phong trào đã được nhân dân đồng tình hưởng ứng, tạo nên không khí thi đua sôi nổi. Do vậy, năng suất, sản lượng nông nghiệp của các hợp tác xã tăng lên rõ rệt, nhân dân thực hiện đạt 100% nghĩa vụ thuế và đóng góp ủng hộ tiền tuyến, thực hiện tốt công tác hậu phương quân đội, động viên con em lên đường nhập ngũ.

Trước diễn biến phức tạp của tình hình trong nước, ngày 27/12/1965 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 12 (khóa III) đã họp đánh giá tình hình và ra nhiệm vụ của cách mạng hai miền. Nghị quyết nêu rõ: “Kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào, nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà..”. Đối với nhiệm vụ ở miền Bắc, Hội nghị cũng đã khẳng định: “Phải chuyển hướng từ tư tưởng và tổ chức, chuyển hướng về xây dựng kinh tế và tăng cường lực lượng quốc phòng nhằm đáp ứng nhu cầu bảo vệ miền Bắc, chi viện cho miền Nam và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc”.

Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, cả hai miền Nam, Bắc đều trở thành tiền tuyến chống Mỹ cứu nước. Miền Bắc chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ, đảm bảo sơ tán, phòng tránh chiến tranh phá hoại, vừa tranh thủ sản xuất thực hiện nhiệm vụ là hậu phương lớn, chi viện đắc lực cho miền Nam…

Thực hiện Nghị quyết của Trung ương, tháng 2 năm 1966, Đảng bộ huyện Bắc Quang đã họp và ra Nghị quyết về phương hướng và nhiệm vụ của huyện trong tình hình mới: Tăng cường sản xuất và chiến đấu, xây dựng lòng tin tuyệt đối với đường lối, chủ trương của Đảng, có ý chí quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược; ra sức xây dựng huyện vững mạnh trên các mặt trận chính trị, kinh tế, quốc phòng. Cụ thể là đẩy mạnh phát triển nông nghiệp toàn diện, ra sức thâm canh, tăng năng suất và phát triển chăn nuôi, đẩy mạnh phát triển cây chè, cây ăn quả; tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang, sẵn sàng chiến đấu, làm tốt công tác phòng tránh, sơ tán; chuyển hướng kịp thời công tác lãnh đạo, chỉ đạo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng mới.

Dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ huyện, Chi bộ xã Tân Quang tổ chức tuyên truyền, giáo dục nhận thức cho đồng bào các dân tộc về cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, từ đó, cần thực hiện tốt những nhiệm vụ trong tình hình mới đặt ra. Trước mắt, đẩy mạnh thi đua trong sản xuất và sẵn sàng chiến đấu, với mục tiêu đảm bảo cuộc sống, an ninh trật tự xã hội, sẵn sàng chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền Nam, thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội.

Ngày 18 tháng 4 năm 1966, Chi bộ xã Tân Quang tổ chức Đại hội lần thứ V, tham dự Đại hội có 34 đảng viên. Đại hội đã đánh giá những kết quả thực hiện Nghị quyết của chi bộ lần thứ IV, (nhiệm kỳ 1963 - 1966), đồng thời chỉ ra những hạn chế, tồn tại và đề ra phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp cần thực hiện (nhiệm kỳ 1966 - 1969). Đại hội đã bầu ra Ban chi ủy gồm 03 đồng chí: Đồng chí Lộc Sằn Hìn, tiếp tục được Đại hội tín nhiệm bầu tái cử giữ chức vụ Bí thư chi bộ. Đồng chí  Lầu Phúc Lầm được bầu giữ chức vụ Phó Bí thư chi bộ kiêm Chủ tịch Ủy ban hành chính xã. Đồng chí  Đỗ Đình Hoạt, ủy viên chi bộ.

Quán triệt Nghị quyết Đảng các cấp, đặc biệt là Nghị quyết của chi bộ tới toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân. Để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ đã đề ra, chi bộ đã xác định, phát triển nông nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm. Giải pháp quan trọng hàng đầu để đưa năng suất lúa lên cao là thực hiện tốt công tác thủy lợi, phân bón, giống, áp dụng các quy trình kỹ thuật vào sản xuất. Do vậy, chi bộ đã chỉ đạo các hợp tác xã và nhân dân đẩy mạnh phong trào làm thủy lợi, khai hoang phục hóa, tận dụng các loại phân chuồng, tăng cường làm phân xanh, đưa giống mới có năng suất cao vào sản xuất như: giống lúa nông nghiệp 8, giống lúa chân trâu lùn, giống lúa bào thai. Thực hiện phương châm “không cấy chay”, áp dụng xử lý giống với công thức “3 sôi, 2 lạnh”, thâm canh lúa, ngô, phòng trừ dịch bệnh, nên năng suất lúa bình quân đạt trên 3,2 tấn/ha, sản lượng các loại cây trồng của hợp tác xã đều tăng cao. Ngoài việc sản xuất cây lương thực, các hợp tác xã còn chú trọng phát triển hoa màu, cây công nghiệp, các loại rau đậu để phục vụ nhu cầu cho các hộ gia đình, trao đổi hàng hóa và phát triển chăn nuôi tăng thu nhập.

Các phong trào thi đua đã được các hợp tác xã, các đoàn thể phát động mạnh mẽ, có hiệu quả. Trong các phong trào thi đua, lực lượng thanh niên trở thành lực lượng xung kích, luôn đi đầu trong việc thực hiện khẩu hiệu “một người làm việc bằng hai”, “3 sẵn sàng”. Bên cạnh đó, phụ nữ với phong trào “Ba đảm đang”...

Song song với phát triển trồng trọt, chăn nuôi cũng được phát triển để tăng cường sức kéo, phân bón phục vụ cho trồng trọt và cung cấp thực phẩm cho địa phương, thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước. 100% các hộ dân đều chăn nuôi gia súc, gia cầm. Nhiều hộ có số lượng gia súc, gia cầm lớn.

Phong trào xây dựng hợp tác xã tiếp tục được đẩy mạnh. Toàn xã có 04 hợp tác xã nông nghiệp và 01 hợp tác xã mua bán, 01 hợp tác xã tín dụng. Chi bộ đã tập trung củng cố hoạt động, nâng cao năng lực quản lý, điều hành của cán bộ hợp tác xã. Các hợp tác xã thực hiện tốt việc phân công lao động, chấm điểm, áp dụng các biện pháp khoa học, kỹ thuật vào sản xuất, đẩy mạnh việc khai hoang, phục hóa, mở rộng diện tích đất canh tác. Do vậy, năng suất lúa bình quân đạt 3,7 kg/bó mạ. Sản lượng các loại cây trồng, vật nuôi của các hợp tác xã đều tăng. Đời sống của các xã viên và nhân dân được nâng cao hơn so với thời kỳ trước.

Công tác văn hóa, giáo dục, y tế được Chi bộ xã chỉ đạo chặt chẽ. Hàng tháng, có các đoàn văn nghệ, đội chiếu bóng lưu động phục vụ nhân dân. Các lớp vỡ lòng đã được phát triển tới tất cả các thôn, học sinh đến tuổi tham gia học tập  ngày một đông. Số lượng học sinh tham gia học tập ổn định, chất lượng học tập cũng được nâng lên. Tỷ lệ chuyển lớp, chuyển cấp tăng, tỷ lệ lưu ban và bỏ học giảm. Việc cho con em trong độ tuổi đến trường đã trở thành nề nếp của nhân dân. Công tác y tế được tăng cường, phong trào vệ sinh phòng dịch bệnh được phát động rộng rãi. Nhân dân ý thức hơn trong việc thực hiện “ăn sạch, ở sạch, uống sạch”, phong trào làm nhà vệ sinh 2 ngăn để đảm bảo sức khỏe, góp phần phòng trừ dịch bệnh được đẩy mạnh thực hiện.

Công tác xây dựng Đảng được quan tâm mọi mặt, đặc biệt là công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên được thực hiện thường xuyên. Cuộc vận động “Xây dựng chi bộ 4 tốt” thực hiện tốt. Công tác phát triển đảng viên mới được quan tâm, trong 03 năm đã kết nạp được 06 quần chúng ưu tú vào Đảng, nâng tổng số đảng viên trong chi bộ đến năm 1969 là 40 đồng chí. Nhìn chung, đội ngũ đảng viên của chi bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có khả năng tuyên truyền, vận động, thuyết phục, lãnh đạo nhân dân thực hiện tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Cùng với phong trào thi đua sản xuất, việc nêu cao tinh thần cảnh giác, tích cực chủ động phòng chống những tình huống có thể xảy ra cũng được chi bộ, chính quyền và nhân dân chú trọng. Trong những năm 1967, 1968, máy bay địch đã nhiều lần bay qua địa bàn xã và ném bom bắn phá khu vực cầu Quang, đe dọa tới đời sống của nhân dân. Với nhận thức luôn chủ động, nhân dân xã Tân Quang đã tích cực thực hiện các chủ trương phòng tránh và sẵn sàng đối phó với sự đánh phá của đế quốc Mỹ, tổ chức chỉ đạo nhân dân, các trường học, trạm xá... đào hầm, giao thông hào phòng tránh bom Mỹ. Xã đã thành lập 01 trung đội dân quân tự vệ được luyện tập thường xuyên để sẵn sàng chiến đấu, phục vụ chiến đấu, nhằm đập tan mọi mưu đồ chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, bảo vệ bình yên cho nhân dân.

Hồi 0 giờ 40 phút ngày 22 tháng 9 năm 1967 lợi dụng đêm tối, máy bay C130 của Mỹ thả một toán biệt kích 07 tên xuống vùng núi xã Việt Vinh, có nhiệm vụ nắm bắt các hoạt động quân sự, vận chuyển quốc tế trên quốc lộ II, chỉ đạo cho máy bay bắn phá rồi di chuyển vào nơi hẻo lánh lập căn cứ, tổ chức bọn phỉ, đặc vụ phá hoại cơ sở của ta. Sau khi phát hiện địch nhảy dù, Huyện đội Bắc quang đã báo động lực lượng dân quân các xã xung quanh bao vây, truy lùng biệt kích. Dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, một tiểu đoàn dân quân chống biệt kích được thành lập gồm 08 đại đội của 06 xã: Việt Vinh, Tân Trịnh, Tân Lập, Hùng An, Quang Minh, Tân Quang. Chi bộ xã Tân Quang đã huy động trên 50 chiến sĩ dân quân tự vệ, phối hợp với các lực lượng vũ trang của huyện và các xã bạn, tập trung bao vây, truy lùng và nhanh chóng bắt gọn toán biệt kích. Chiến thắng trên thể hiện sự cảnh giác cao độ và sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng, làm thất bại mọi ý đồ của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giữ vững an ninh chính trị, trật tự trên địa bàn.

Năm 1967, Đảng bộ huyện Bắc Quang tiến hành Đại hội lần thứ VI. Đại hội đã nhận định, đánh giá hoạt động của Đảng trong 03 năm qua; đồng thời biểu dương tinh thần quyết tâm vượt mọi khó khăn để sản xuất, chiến đấu, phục vụ chiến đấu của cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc trong toàn huyện. Đại hội cũng đề ra phương hướng, nhiệm vụ thời gian tới: Sản xuất lương thực, chăn nuôi, trồng cây công nghiệp và nghề rừng là nhiệm vụ trọng tâm. Nâng cao mọi mặt đời sống nhân dân, phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, tăng cường, củng cố hợp tác xã nông nghiệp, thực hiện các biện pháp kỹ thuật để phát triển kinh tế, kiện toàn tổ chức quản lý kinh tế, thực hành tiết kiệm. Mặt khác, tăng cường sự lãnh đạo, kiện toàn tổ chức chính quyền, củng cố các đoàn thể quần chúng, xây dựng lực lượng dân quân du kích, dân quân tự vệ vững mạnh, bảo vệ trật tự trị an, tạo niềm tin, sự phấn khởi trong nhân dân.

Quán triệt tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng bộ huyện, Nghị quyết Chi bộ xã lần thứ V. Chi Bộ xã Tân Quang phấn đấu, quyết tâm chỉ đạo chính quyền, các đoàn thể xã hội cùng toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân phát huy những thành tựu đã đạt được, khắc phục mọi khó khăn, đoàn kết toàn dân, nêu cao truyền thống cách mạng, kiên trì thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, lãnh đạo nhân dân các dân tộc trong xã thực hiện tốt các mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp đã đề ra, góp phần cùng cả nước đánh bại âm mưu phá hoại của đến quốc Mỹ và bọn tay sai ở miền Bắc và giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Tháng 01 năm 1968, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14 ra Nghị quyết về chủ trương mở rộng cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1968.

Từ ngày 28 đến ngày 31 tháng 08 năm 1968, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 15 họp về chủ trương củng cố và phát triển thắng lợi cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1968.

Ngày 03 tháng 11 năm 1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước anh dũng tiến lên đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược, đây là nhiệm vụ thiêng liêng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta lúc này: “Nâng cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng, quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình, thống nhất Tổ quốc... Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải chiến đấu quét sạch nó đi”.

Thực hiện chỉ đạo của Trung ương Đảng và Tỉnh ủy Hà Giang, Huyện ủy Bắc Quang, chi bộ đã phát động phong trào thi đua rộng khắp tới cán bộ, đảng viên và nhân dân trên tất cả các lĩnh vực sản xuất, học tập và công tác, quyết tâm củng cố các hợp tác xã, tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng, hoàn thành thắng lợi các chỉ tiêu nhà nước giao cho. Đồng thời tập trung chỉ đạo củng cố lực lượng dân quân tự vệ, tăng cường công tác huấn luyện kỹ thuật chiến đấu phòng không, chống biệt kích, bảo vệ bí mật, trị an trên địa bàn; vận động thanh  niên tích cực lên đường nhập ngũ. Nhờ những cố gắng, nỗ lực của nhân dân các dân tộc trong xã, đời sống mọi mặt của nhân dân từng bước đã được củng cố và phát triển. Trong những năm 1966 - 1968, nhân dân xã tích cực thực hiện nghĩa vụ Nhà nước của xã với tinh thần “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” luôn được đảm bảo. Hàng năm số thanh niên nhập ngũ của xã đều đạt và vượt chỉ tiêu của cấp trên giao. Với tinh thần dũng cảm, sẵn sàng hy sinh vì miền Nam ruột thịt, thanh niên Tân Quang đã nô nức đăng ký tham gia nhập ngũ, có những thanh niên đã cắt tay lấy máu viết tâm thư xin nhập ngũ, như: Phạm Hùng, Trần Đảm. Nhiều thanh niên không biết chữ hay thiếu cân nặng đã tìm mọi cách khám tuyển đạt yêu cầu, để được lên đường nhập ngũ. Việc động viên con em lên đường nhập ngũ đã trở thành niềm tự hào của mỗi gia đình trong xã. Với thành tích đó, Đoàn Thanh niên của xã đã được nhận Bằng khen chống Mỹ cứu nước của Trung ương Đoàn. Việc duy trì an ninh, trật tự xã hội trong các thôn xóm cũng được thực hiện tốt. Lực lượng dân quân của xã được phát triển mạnh, luôn sẵn sàng tham gia chiến đấu và bảo vệ trị an.

Ngày 17 tháng 5 năm 1969, Chi bộ xã tổ chức Đại hội lần thứ VI  (nhiệm kỳ 1969 - 1973), với sự tham dự của 40 đảng viên. Đại hội đã tổng kết, đánh giá những kết quả công tác chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ Nghị quyết Chi bộ lần thứ V (nhiệm kỳ 1966 - 1969), đề ra phương hướng nhiệm vụ giai đoạn 1969 - 1973. Đại hội bầu ra Ban chi ủy gồm 03 đồng chí: đồng chí Trần Văn Sắn được Đại hội tín nhiệm bầu giữ chức vụ Bí thư chi bộ. Đồng chí Lầu Phúc Lầm, Phó Bí thư chi bộ kiêm Chủ tịch Ủy ban hành chính xã. Đồng chí Nguyễn Mạnh Lân, ủy viên Ban chi ủy kiêm Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính xã.

Đại hội đã khẳng định và biểu dương tinh thần quyết tâm, vượt qua khó khăn để phát triển kinh tế, xây dựng hợp tác xã; ứng dụng các biện pháp kỹ thuật, đưa các giống cây, con mới vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất, sản lượng cây trồng, vật nuôi, góp phần tăng thu nhập cho nhân dân. Đồng thời sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Đại hội đã đề ra những nhiệm vụ cần thực hiện trong thời gian tiếp theo đó là: Tiếp tục củng cố và xây dựng hợp tác xã, tận dụng tối đa nguồn nhân lực cho phát triển nông nghiệp với trọng tâm là phát triển sản xuất lương thực, thực hiện tốt việc chi viện cho tiền tuyến, chú trọng công tác xây dựng Đảng và củng cố chính quyền, các đoàn thể xã hội. Làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ từ xã đến thôn. Trong nhiệm kỳ phấn đấu kết nạp từ 5 đến 7 đảng viên mới.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội, Chi bộ xã đã chỉ đạo phát động nhân dân đẩy mạnh việc sản xuất, củng cố phong trào xây dựng hợp tác xã, không ngừng tăng năng xuất, sản lượng trong nông nghiệp. Việc khai hoang mở rộng diện tích đất canh tác cũng được đẩy mạnh. Nhờ đó, diện tích trồng lúa, khoai, sắn, mía được tăng lên. Số lượng gia súc, gia cầm cũng tăng lên từng năm. Tính đến tháng 2 năm 1969, toàn xã có 117 con trâu, bò; 453 con lợn; 1.700 con gà; trồng được 803.400 ngọn mía; 300.000 gốc sắn; hơn 4.000kg khoai lang, khoai sọ… Bên cạnh đó, xã tiếp nhận đồng bào miền xuôi lên khai hoang làm kinh tế, giao đất và giúp đỡ đồng bào ổn định cuộc sống. Đến năm 1969, toàn xã Tân Quang có 340 hộ với 1.816 khẩu.

Năm 1969 là năm có nhiều thách thức đối với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Bắc Quang nói chung, nhân dân xã nói riêng. Trong thời gian 05 ngày (từ ngày 14 đến ngày 18 tháng 8 năm 1969) các trận mưa lớn đã trút xuống Bắc Quang một lượng mưa 4.855 mm/m2, gây ra trận lũ lớn nhất chưa từng có từ hàng trăm năm trở lại đây. Tân Quang là địa bàn chịu ảnh hưởng nặng nề của trận lũ lụt lịch sử này. Với những thiệt hại: Số hộ bị ngập 329 hộ; số nhà bị trôi, đổ 334 cái, chuồng trại gia súc bị trôi, đổ 92 cái, trâu, bò, gia cầm bị trôi, chết 618 con, diện tích lúa bị ngập 10.914 bó mạ và nhiều diện tích hoa màu, tài sản khác bị thiệt hại... song không có thiệt hại về người.

Để khắc phục những hậu quả do mưa lũ gây ra và động viên nhân dân ổn định sản xuất. Ngày 03 tháng 9 năm 1969, đoàn công tác của Chính phủ do đồng chí Lê Trung Đình - Thứ Trưởng bộ Công nghiệp dẫn đầu đã lên thăm và động viên nhân dân xã Tân Quang. Chi ủy đã chỉ đạo chính quyền, các đoàn thể xã hội phân công cán bộ xuống từng thôn, từng hợp tác xã để động viên, giúp đỡ nhân dân ổn định sản xuất. Tổ chức huy động nhân dân đóng góp hàng ngàn ngày công tham gia khắc phục hậu quả do mưa lũ gây ra, sửa chữa các tuyến đường bị hỏng, giúp đỡ những gia đình bị trôi, đổ nhà, tu sửa lại nhà cửa ổn định cuộc sống. Đồng thời nhận được sự hỗ trợ của huyện về giống, vốn nên việc phát triển sản xuất tiếp tục được duy trì, đời sống nhân dân bước đầu ổn định.

Giữa lúc nhân dân cả nước thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hăng hái lao động sản xuất, củng cố quốc phòng, giành được những thắng lợi quan trọng trong cả nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc ta, người con vĩ đại của dân tộc Việt Nam - Người sáng lập, xây dựng, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta từ thắng lợi này đến thắng lợi khác đã qua đời. Đây là sự mất mát vô cùng to lớn, một sự đau thương vô hạn không thể bù đắp cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân tộc Việt Nam. Ngày 6 tháng 9, Chi bộ xã đã tổ chức trọng thể lễ truy điệu Người, nhân dân trong xã treo cờ rủ để tang Bác.

Biến đau thương thành hành động, thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy Bắc Quang, Chi bộ xã đã tiến hành mở đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân “Học tập và làm theo Di chúc của Hồ Chủ Tịch” và phát động phong trào thi đua “Sản xuất, chiến đấu giỏi, lập công đền ơn Bác”. Qua học tập, cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trong xã đã hiểu sâu sắc về tác phong, đạo đức, cuộc đời và sự nghiệp lớn lao của Hồ Chủ tịch. Nhân dân trong xã phấn khởi thi đua lao động sản xuất, sẵn sàng chiến đấu với lòng biết ơn vô hạn đối với Bác Hồ kính yêu.

Mặc dù còn nhiều khó khăn, dưới sự chỉ đạo của chi bộ, chính quyền, các tổ chức xã hội, cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc trong xã đã đoàn kết một lòng, vượt qua mọi khó khăn, đạt được nhiều thành tích trên các lĩnh vực. Đối với việc xây dựng hợp tác xã nông nghiệp, đến năm 1970, xã thành lập được 20 hợp tác xã và chỉ đạo các Hợp tác xã thâm canh tăng năng suất cây trồng, tăng diện tích khai hoang. Các hợp tác xã đã chủ động ứng dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật, gieo trồng giống mới cho năng suất cao (nông nghiệp 8, chân châu lùn, mộc tuyền,...); tổ chức cấy thẳng hàng, cấy dầy, chăm sóc đúng quy trình kỹ thuật, xây dựng thủy lợi phục vụ tưới tiêu. Mặt khác để bảo đảm năng suất cao, huyện hỗ trợ phân bón hoá học, cử cán bộ kỹ thuật tăng cường giúp xã việc chỉ đạo, hướng dẫn nhân dân tổ chức sản xuất. Do vậy, năng suất sản xuất lúa của các hợp tác xã tăng hơn so với các năm trước, bình quân đạt 4,2 tấn/ha, sản xuất các loại cây lương thực, cây hoa màu, cây công nghiệp đều đạt 100% diện tích. Công tác chăn nuôi cũng được nhân dân đẩy mạnh, số lượng và chất lượng đàn gia súc, gia cầm trong toàn xã đều tăng. Nhiều hộ đã bán vượt số lượng lương thực và thực phẩm cho Nhà nước.

Cùng với phong trào xây dựng hợp tác xã nông nghiệp, các hợp tác xã tín dụng và hợp tác xã mua bán của xã hoạt động tương đối hiệu quả. Công tác phân phối lưu thông có nhiều cố gắng trong việc phục vụ đời sống nhân dân, nhằm cung cấp các loại mặt hàng thiết yếu cho nhân dân như: dầu thắp, muối, vải sợi, sách vở học sinh .... ngoài ra còn có các loại mặt hàng nông sản, lâm thổ sản khác. Việc thu mua các loại sản phẩm trong nhân dân được thực hiện thường xuyên, đã góp phần tăng thu nhập cải thiện đời sống nhân dân.

Công tác giáo dục của xã luôn được quan tâm thực hiện tốt. Các trường cấp I, II được đầu tư xây dựng và tu sửa hàng năm bảo đảm nơi ở cho các thầy, cô giáo, nơi ở, nơi học cho học sinh với phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm. Qua đó, việc xóa nạn mù chữ trên địa bàn toàn xã căn bản được hoàn thành, trình độ dân trí từng bước được nâng lên.

Công tác xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể luôn được chi bộ quan tâm chỉ đạo thực hiện. Cuộc vận động xây dựng chi bộ “4 tốt”, đảng viên “4 tốt” được Chi bộ quán triệt tới toàn thể đảng viên và các đảng viên trong chi bộ đã nghiêm chỉnh chấp hành, thực hiện tốt. Trong nhiệm kỳ, chi bộ đã kết nạp được 04 quần chúng ưu tú vào Đảng, nâng tổng số đảng viên trong chi bộ lên 44 đồng chí. Chất lượng đảng viên được nâng cao, các đảng viên luôn chấp hành tốt nhiệm vụ công tác, và tích cực học tập, rèn luyện để nâng cao trình độ kiến thức, năng lực, hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Trong nhiệm kỳ, chi bộ đã cử 42 đồng chí cán bộ, đảng viên tham gia các lớp tập huấn bồi dưỡng kiến thức, nghiệp vụ chuyên môn, lý luận chính trị tại huyện, tỉnh, nhằm nâng cao trình độ, năng lực công tác hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.          

Năm 1971 là năm gặp nhiều khó khăn và trở ngại với xã Tân Quang cũng như nhiều xã khác trong huyện. Khi những thiệt hại do mưa lũ năm 1969 vừa được khắc phục thì cuối tháng 7, đầu tháng 8 năm 1971 trời mưa liên tục trong nhiều ngày làm nước sông Lô dâng cao gây lũ lụt nghiêm trọng gây tổn thất cho nhân dân. Toàn xã có 07 ngôi nhà bị sập, nhiều diện tích lúa, hoa màu, ao cá, bị lũ ống, lũ quét cuốn trôi và đất đá vùi lấp, nhiều phai đập bị hư hỏng nặng. Nhiều gia đình lâm vào tình trạng thiếu ăn. Trước tình hình trên, chi bộ, chính quyền xã đã tích cực vận động nhân dân ra sức khắc phục khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, không trông chờ, ỷ lại vào sự giúp đỡ của Nhà nước. Phát động phong trào nhường cơm sẻ áo, đoàn kết giúp đỡ nhau khắc phục vượt mọi khó khăn đã được nhân dân đồng tình hưởng ứng, ủng hộ.

Tháng 5 năm 1973, Đại hội lần thứ VII của chi bộ được tổ chức, tham dự Đại hội có 44 đảng viên trong toàn chi bộ. Đại hội đã tổng kết, đánh giá những kết quả công tác chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ Nghị quyết Chi bộ lần thứ VI (nhiệm kỳ 1969 - 1973), đề ra phương hướng nhiệm vụ giai đoạn 1973 - 1976; Đại hội bầu Ban chi ủy gồm 03 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Mạnh Lân được Đại hội tín nhiệm bầu giữ chức Bí thư chi bộ; đồng chí Đào Minh Châu, Phó Bí thư chi bộ kiêm Chủ tịch Ủy ban hành chính xã; đồng chí Đinh Xuân Bắc, ủy viên kiêm Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính xã.

Đại hội đã đánh giá cao những thành tựu đã đạt được trong công tác giáo dục chính trị tư tưởng của cán bộ, đảng viên được nâng cao. Quan hệ sản xuất ngày càng được củng cố, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên. Tuy nhiên, vẫn còn bộc lộ một số hạn chế như: Nền kinh tế phát triển còn mang hình thức tự cấp, tự túc, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm... Đại hội thảo luận, thống nhất một số nhiệm vụ trong nhiệm kỳ tới: Tiếp tục cuộc vận động, tuyên truyền các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng các cấp, các chủ trương chính sách pháp luật của Nhà nước, các nội quy, quy định của địa phương tới toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân; đồng thời nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu; khẩn trương khắc phục những hậu quả của thiên tai, khôi phục kinh tế. Tiếp tục chỉ đạo các hợp tác xã, vận động nhân dân sản xuất bảo đảm 100% diện tích, thâm canh, ứng dụng các biện pháp kỹ thuật, giống mới vào sản xuất, chăn nuôi; phát triển một số cây trồng, vật nuôi có tính hàng hóa lâu dài bền vững. Chú trọng chăm lo đến sự nghiệp giáo dục - văn hóa. Vận động nhân dân đóng góp ngày công, vật chất xây dựng cơ sở cho các trường học, đường giao thông, kênh mương thủy lợi. Củng cố chính quyền và các đoàn thể xã hội, phát triển đảng viên, đoàn viên, hội viên. Tăng cường công tác giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Bắc Quang lần thứ VII, Nghị quyết Đại hội chi bộ lần thứ VII. Đầu năm 1974, Tân Quang đưa cây mía vào sản xuất với diện tích lớn, đây là bước đột phá trong việc xác định chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi phát triển bền vững theo hướng hàng hóa. Các đội sản xuất tập trung vào làm đất và trồng mía, trong đó đội Ngọc Đường trồng được diện tích lớn, đạt 60.000 khóm mía. Nhờ có sự củng cố và định hướng đúng đắn trong việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, từ năm 1973 đến năm 1975 kinh tế của xã đã đạt được những thành quả đáng khích lệ, như: Diện tích cây lúa tiếp tục được mở rộng, không còn diện tích bỏ hoang, năng suất bình quân đạt được 4,3 tấn/ha; diện tích hoa màu được phát triển mạnh, một số hợp tác xã đã hình thành diện tích chuyên canh trồng rau. Thương mại bắt đầu phát triển hình thành ở các điểm tập trung dân cư như thôn Vinh Quang, Xuân Hòa.

Chăn nuôi trong giai đoạn này cũng có những bước tiến nhảy vọt, đàn trâu của hợp tác xã không ngừng được phát triển cả về số lượng và quy mô, vừa phục vụ cho sản xuất vừa làm thực phẩm cho nhu cầu xã hội. Ngoài ra các hộ gia đình cũng phát triển đàn trâu, lợn, các loại gia cầm, nhằm tăng thêm thu nhập và nâng cao chất lượng cuộc sống.

Công tác thủy lợi cũng được chú trọng và tăng cường. Trong năm 1975 đã huy động trên 300 ngày công, tu sửa trên 2.500 m kênh mương và 06 phai đập, bảo đảm cung cấp nước tưới cho 100% diện tích. Ngoài ra hợp tác xã đã thành lập đội sản xuất vôi, nhằm bón ruộng, khử chua, cải tạo đất, giúp cây lúa phát triển tốt, góp phần tăng năng suất cây trồng; đồng thời cung cấp nhu cầu xây dựng cho địa phương, giải quyết việc làm, bảo đảm cuộc sống cho người lao động.

Ngành lâm nghiệp được Chi bộ xã coi trọng và chỉ đạo chặt chẽ việc khai thác, tu bổ và bảo vệ rừng. Công tác tuyên truyền, giáo dục cho nông dân ý thức bảo vệ, phát triển rừng, chống phát nương bừa bãi được tuyên truyền rộng khắp tới toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân. Người dân đã có ý thức hơn trong công tác bảo vệ rừng. Việc khai thác gỗ, vầu, nứa và các loại hàng lâm thổ sản được triển khai theo kế hoạch cấp trên giao bảo đảm 100% kế hoạch. Tuy nhiên, hiện tượng phát rừng làm nương vẫn còn xảy ra.

Công tác lưu thông, phân phối có nhiều chuyển biến. Hợp tác xã mua bán đã cung cấp tương đối đầy đủ các mặt hàng phân phối thiết yếu cho nhân dân. Việc giao lưu, trao đổi, mua bán các mặt hàng nông, lâm, thổ sản được mở rộng. Ngoài việc giao nộp đủ nghĩa vụ thuế cho Nhà nước, cho địa phương, nhân dân còn bán thêm các loại lương thực, thực phẩm cho Nhà nước góp phần tăng thu nhập, nâng cao đời sống của người dân.

Công tác quản lý tín dụng và các khoản thu, đóng góp của nhân dân vào ngân sách Nhà nước được chỉ đạo cụ thể, nhằm tăng thu để chi, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Các hợp tác xã đã làm tốt công tác quản lý tài vụ, kế toán, kiểm kê tài sản, tích cực thu nợ tồn đọng, chống thất thu, tham ô, lãng phí tiền của của nhân dân.

Lĩnh vực Giáo dục - Văn hóa và các hoạt động xã hội cũng không ngừng được phát triển. Số lượng học sinh ngày càng đông, chất lượng giáo dục đã có những chuyển biến tích cực. Đến năm 1975 toàn xã đã có 20 lớp học phổ thông các cấp (trong đó cấp I có 10 lớp, cấp II có 07 lớp, cấp III có 03 lớp). Cơ sở vật chất phục vụ cho giáo dục từng bước được hoàn thiện, trang thiết bị phục vụ cho công tác giảng dạy của giáo viên và học sinh được đầu tư. Hàng năm, nhân dân trong xã tích cực tham gia đóng góp ngày công lao động, vật liệu để tu sửa trường, lớp, đảm bảo nơi học tập cho học sinh và chỗ ở cho cán bộ, giáo viên. Phong trào văn hóa văn nghệ được phát triển mạnh, nhất là phong trào văn nghệ quần chúng. Các phong trào văn hóa - văn nghệ hoạt động đa dạng hơn với những nội dung phong phú và thiết thực. Đội văn nghệ của các thôn thường xuyên hăng hái luyện tập, giao lưu trong các dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn của địa phương, đất nước, được đông đảo quần chúng cổ vũ, ủng hộ. Các hoạt động thể thao cũng được phát triển, các thôn đều thành lập đội bóng đá, thường xuyên luyện tập để rèn luyện sức khỏe và tham gia giao hữu, thi đấu trong các dịp lễ, tết được tổ chức trong xã, các xã bạn và tham gia các giải do huyện tổ chức. Công tác xây dựng nếp sống mới, chống mê tín dị đoan đã được tuyên truyền sâu rộng tới nhân dân và được nhân dân đồng tình ủng hộ. Ngoài ra, đội chiếu phim lưu động của huyện theo kế hoạch mỗi năm 02 lần tới xã phục vụ nhu cầu văn hóa của nhân dân và phục vụ công tác tuyên truyền của Đảng. Do vậy, đời sống tinh thần của nhân dân được nâng lên.

Các hoạt động y tế cũng có những cố gắng. Nhờ sự đầu tư của huyện, công tác y tế chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân trong xã không ngừng được đẩy mạnh. Trạm xá xã được bố trí 01 y sĩ, 01 y tá và được cung cấp các loại thuốc phục vụ cho việc khám, điều trị các loại bệnh thông thường cho nhân dân. Ngoài ra định kỳ hàng tháng cán bộ y tế thường xuyên xuống các thôn xóm tuyên truyền, vận động nhân dân sinh hoạt ăn, ở hợp vệ sinh, ăn sạch, uống sôi, tiêm phòng, phát quang khu nhà ở, nằm màn chống muỗi; .... Do vậy, sức khỏe của nhân dân được bảo đảm, các tệ nạn lạc hậu được đẩy lùi.

Công tác đầu tư xây dựng cơ bản được thực hiện tốt. Chi bộ đã chỉ đạo chính quyền, các hợp tác xã, các tổ chức đoàn thể huy động nhân dân tham gia đóng góp hàng nghìn ngày công lao động, sửa chữa đường giao thông nông thôn, nâng cấp và tu sửa hệ thống trường học, trụ sở hợp tác xã, trạm y tế, các công trình của xã... Sự đóng góp về tiền của, sức lao động của cán bộ, đảng viên và nhân dân đã góp phần hoàn thành các chỉ tiêu đề ra.  

Phong trào xây dựng hợp tác xã tiếp tục được tổ chức thực hiện. Toàn xã có 20 hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Đầu năm 1975, xã đã thành lập hợp tác xã xe trâu, nhằm phục vụ cho việc vận chuyển hàng hoá, lương thực thực phẩm trong vùng, giải quyết việc làm tăng thu nhập cho người lao động. Các hợp tác xã hoạt động hiệu quả, năng lực quản lý, điều hành của cán bộ hợp tác xã được nâng lên, đời sống của người lao động được cải thiện. Qua đánh giá hàng năm, các hợp tác xã đều đạt từ khá trở lên. Hợp tác xã Xuân Hoà đạt danh hiệu hợp tác xã tiên tiến.

Hoạt động của các đoàn thể được thực hiện tốt. Đoàn Thanh niên giữ vai trò nòng cốt và đầu tầu gương mẫu trong các phong trào lao động sản xuất, làm thủy lợi, phân bón, cải tiến nông cụ và thực hiện “3 sẵn sàng”. Nhiều đoàn viên thanh niên trong xã đã hăng hái tham gia xây dựng Quốc lộ 34 (đường Hà Giang - Bắc Mê). Hội Liên hiệp Phụ nữ đóng vai trò chủ yếu trong lao động sản xuất. Nhiều chị em phụ nữ đã tín nhiệm tham gia và giữ các chức vụ trong chính quyền, các hợp tác xã, đoàn thể xã hội. Ngoài ra chị em tích cực tham gia phong trào “3 đảm đang”, góp phần làm tăng năng suất, sản lượng trong toàn xã. Bên cạnh đó, các tổ chức đoàn thể đã tổ chức vận động thanh niên lên đường nhập ngũ, động viên thăm hỏi, tặng quà cho các gia đình chính sách, hộ nghèo, gia đình cô đơn nhân dịp các ngày lễ, tết cổ truyền, nhằm động viên, khuyến khích các gia đình vượt qua mọi khó khăn, tích cực tham gia sản xuất, ổn định cuộc sống.

Công tác xây dựng Đảng được thực hiện tốt. Trong những năm 1973 - 1976, nhiều đảng viên đã được tham gia các lớp tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị. Trình độ nhận thức của cán bộ, đảng viên không ngừng được nâng cao, một số cán bộ đã tốt nghiệp cấp 3. Công tác phát triển Đảng được quan tâm thực hiện, chi bộ đã giới thiệu, bồi dưỡng và kết nạp được 05 đảng viên, nâng tổng số đảng viên trong chi bộ lên 49 đồng chí.

Với những cố gắng của tập thể đảng viên trong chi bộ, trong những năm 1973 - 1976, xã Tân Quang đã đạt được nhiều kết quả cao trên các lĩnh vực như: Nhận thức tư tưởng, chính trị trong đảng viên và nhân dân đã được nâng cao, cơ cấu cây trồng vật nuôi đã có sự điều chỉnh, thương mại và tiểu thủ công nghiệp phát triển hơn trước, đời sống nhân dân đã từng bước được cải thiện. Văn hóa - Giáo dục - Y tế đã có những chuyển biến tích cực; quốc phòng, an ninh được ổn định. Song còn tồn tại một số hạn chế là: Nền kinh tế còn mang tính hình thức tự cung tự cấp; trình độ năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ trong công tác chỉ đạo sản xuất còn hạn chế, quy mô hợp tác xã nhỏ, hiệu quả sản xuất chưa cao, việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn hạn chế, dân trí có hạn; chăn nuôi quy mô nhỏ chủ yếu gia đình, chưa thành các sản phẩm hàng hóa lớn, tiềm năng của địa phương chưa khai thác triệt để....

Nhìn lại chặng đường hơn 20 năm (1955 - 1975), dưới sự lãnh đạo của Đảng cả nước đã tích cực tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đóng góp sức người, sức của cùng nhân dân miền Nam đánh thắng đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai thống nhất đất nước; trong đó có sự đóng góp của chi bộ và nhân dân xã Tân Quang. Mặt khác, chi bộ và nhân dân các dân tộc cũng đã đạt nhiều thành tựu quan trọng trong công cuộc xây dựng quê hương. Quan hệ sản xuất mới được xác lập, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện, nâng cao. Tuy nhiên, nền kinh tế của xã vẫn trong tình trạng tự cung, tự cấp, cơ sở vật chất còn nhiều khó khăn, sản xuất còn phụ thuộc vào thiên nhiên, thiên tai, lũ lụt xảy ra liên tiếp; trình độ, năng lực tổ chức, quản lý và thực hiện các nhiệm vụ của cán bộ còn hạn chế, hậu quả của hai cuộc kháng chiến để lại chưa khắc phục song.

 

 

UBND xã Tân Quang

Tin khác